I.1
<*01*> đem linh cữu quàn tạm trong chùa Phổ Cứu: nguyên văn "tương giá linh cữu kí tại Phổ Cứu tự nội" 將這靈柩寄在普救寺內; bản dịch ghi "đem linh cữu hoàn tạm trong chùa Phổ Cứu" (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 48).
<*04*> án tuyết: nguyên văn "huỳnh song tuyết án/tuyết song huỳnh hỏa" 螢窗雪案/雪窗螢火; có hai điển cố: Xa Dận 車胤 người đời Tấn, thuở nhỏ nhà nghèo, phải dùng ánh sáng của đom đóm để đọc sách; Tôn Khang 孫康 người đời Tống, nhà nghèo, nhờ tuyết chiếu sáng mà đọc sách.
<*06*> nói năng đùa cợt mặt ta: nguyên văn "tắc trước nhân nhãn hoa liêu loạn khẩu nan ngôn" 則著人眼花撩亂口難言; tồn nghi: chữ "nhãn" 眼 nghĩa là "mắt", các bản tìm thấy trên Internet đều ghi là "mặc" có phần không hợp nghĩa, ở đây vẫn ghi theo bản dịch gốc là "mặt" (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 55).
<*07*> cảnh Bồng Lai: Bồng Lai 蓬萊 là tên của một trong ba hòn núi ở biển Bột Hải 渤海, tương truyền là nơi thần tiên ở; hai hòn núi kia là Phương Trượng 方丈 và Doanh Châu 瀛洲. Nhượng Tống mượn tên Bồng Lai để dịch nguyên văn "Đâu Suất cung" 兜率宮; Phật tổ trước khi thành Phật đã ở trời Đâu Suất.
<*08*> sao tôi lại gặp con người thần tiên: nguyên văn "thùy tưởng trước tự lí ngộ thần tiên" 誰想著寺裡遇神仙; nghĩa là: ai ngờ ở trong chùa này lại được gặp thần tiên.
<*09*> trâm hoa: nguyên văn "thúy hoa điền" 翠花鈿; chỉ vật trang sức hình hoa khắc hoặc khảm bằng vàng bạc châu báu; bản dịch ghi "trăm hoa" (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 56).
<*10*> mày in trăng mới xinh thay: nguyên văn "tắc kiến tha cung dạng mi nhi tân nguyệt yển" 則見他宮樣眉兒新月偃; chữ "mi" 眉 nghĩa là "lông mày con mắt", bản dịch ghi "mây in trăng..." (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 56).
<*11*> nghĩ hươu tính vượn: nguyên văn "ý mã tâm viên" 意馬心猿; chỉ tư tưởng giống như ngựa và vượn, nghĩa là hoang mang chưa định.
<*12*> tôi thì rằng: chính chùa thờ đức phật bà Quan Âm: nguyên văn "ngã đạo thị nam hải thủy nguyệt Quan Âm hiện" 我道是南海水月觀音現.
<*13*> nguồn Đào: nguyên văn "Vũ Lăng nguyên" 武陵源; theo bài tự "Đào hoa nguyên kí" 桃花源記 của Đào Uyên Minh 陶淵明, có một người làm nghề đánh cá, đời Tấn, ở quận Vũ Lăng, một hôm tình cờ đi thuyền lạc vào một rừng hoa đào, gặp những người sinh sống trong đó, như một chốn thần tiên, hoàn toàn cách biệt với người ngoài.
https://zh.wikipedia.org/zh-tw/桃花源#/media/File:P1080320.jpg |
I.2
<*02*> cha mẹ sinh con bao công khó nhọc...: nguyên văn "Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao..." 哀哀父母, 生我劬勞... § Thi Kinh 詩經 có bài Lục nga 蓼莪 cỏ nga cao lớn. Ông Vương Biều nhà Tấn đọc bài thơ ấy tới câu "Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao" 哀哀父母, 生我劬勞 liền chảy nước mắt; học trò thấy thế, bỏ thơ Lục nga không học nữa. Vì thế thường dùng thơ này để chỉ người có lòng hiếu nhớ đến cha mẹ.
<*03*> em lại không phải thầy số, cần gì cậu phải kể ngày sinh tháng đẻ: cả câu này không có trong nguyên tác. Nhượng Tống viết thêm vào... cho vui! (như một "cái đuôi" trong một số bản dịch của Bùi Giáng).
<*04*> chớ làm việc trái lễ! chớ nói lời trái lễ: nguyên văn "phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động" 非禮勿言, 非禮勿動. § Nhượng Tống bỏ không dịch một đoạn dài nói về lễ nghĩa (hơi rườm rà).
I.3
<*01*> thông minh hơn người: nguyên văn "tinh tinh đích tự cổ tích tinh tinh" 惺惺的自古惜惺惺; người thông minh từ xưa yêu quý người thông minh.
I.4
<*01*> còn gì sung sướng hơn người vô tâm: nguyên văn "đa tình khước bị vô tình não" 多情卻被無情惱; ý nói mọi người chung quanh cùng các nhà sư đều ồn ào náo nhiệt làm lễ chay, không ai hiểu nỗi lòng Trương sinh đang vì Oanh Oanh áo não tương tư. Câu này mượn từ bài Điệp luyến hoa 蝶戀花 của Tô Đông Pha:
...
Tường lí thu thiên tường ngoại đạo.
Tường ngoại hành nhân,
Tường lí giai nhân tiếu.
Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiễu,
Đa tình khước bị vô tình não.
...
牆裏秋千牆外道.
牆外行人, 牆裏佳人笑.
笑漸不聞聲漸悄,
多情卻被無情惱.
Tuệ Sỹ dịch: Bên trong tường là cái xích đu, bên ngoài tường là con đường cái. Bên ngoài tường là lữ khách đi, bên trong tường là người đẹp đang cười. Cười nghe càng lúc càng nhỏ và tiếng càng lúc càng ngậm ngùi, cái đa tình đã thường bị cái vô tình làm ray rứt.
Tường lí thu thiên tường ngoại đạo.
Tường ngoại hành nhân,
Tường lí giai nhân tiếu.
Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiễu,
Đa tình khước bị vô tình não.
...
牆裏秋千牆外道.
牆外行人, 牆裏佳人笑.
笑漸不聞聲漸悄,
多情卻被無情惱.
Tuệ Sỹ dịch: Bên trong tường là cái xích đu, bên ngoài tường là con đường cái. Bên ngoài tường là lữ khách đi, bên trong tường là người đẹp đang cười. Cười nghe càng lúc càng nhỏ và tiếng càng lúc càng ngậm ngùi, cái đa tình đã thường bị cái vô tình làm ray rứt.
II.1
<*01*> gối chăn: nguyên văn "Giao tiêu chẩm" 鮫綃枕; tương truyền "Giao tiêu" là lụa mịn do người Giao 鮫 ở bể Nam Hải dệt.
<*03*> mẹ tuổi sáu mươi: nguyên văn "lão thân niên lục thập niên" 老身年六十年; bản dịch ghi "mẹ tuổi ngoài năm mươi" (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 123).
II.2 Vây chùa (tiếp theo)
<*01*> Chẳng kinh kệ cũng không tụng niệm: nguyên văn "bất niệm Pháp Hoa kinh, bất lễ lương hoàng sám" 不念《法華經》,不禮梁皇懺; "lương hoàng sám" nguyên danh là "Từ bi đạo tràng sám pháp"《慈悲道場懺法》.
<*02*> dở gái, dở trai: nguyên văn "nữ bất nữ, nam bất nam" 女不女、男不男 gái chẳng ra gái, trai chẳng ra trai.
<*01*> Thư viết ngày 16 tháng Hai: nguyên văn "nhị nguyệt thập lục nhật thư" 二月十六日書; sách in là "Thư viết ngày 26 tháng Hai" (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 137).
<*02*> Tôn Phi Hổ ơi: đoạn này không thấy trong nguyên tác. Nhượng Tống dịch thường rất sát ý Vương Thực Phủ. Chỗ này hơi có ý hài hước, tựa như Bùi Giáng sau này hay thêm mấy "cái đuôi" trong những bản dịch của ông (cf. Mùi Hương Xuân Sắc, Nhà sư vướng lụy, v.v.).
II.3
<*01*> nguyên văn đoạn mở đầu ở đây đã chuyển dịch ở cuối chương II.2 (第二本 楔子) Viên môn Đỗ Tướng quân, sau đoạn (08): "Ngày mai gọi là có chén rượu nhạt, cho con Hồng sang mời, thế nào cậu cũng chiếu cố cho."
<*02*> áo bào trắng bong: nguyên văn "bạch lan" 白毇 (lán蘭) một thứ áo quần trên dưới liền nhau, học trò (sĩ nhân 士人) mặc ngày xưa (theo trang web: http://www.digibooks.com.tw/xpe/portal/795426eb-6ba2-401c-9f33-ccbd5b8727ae/-1/221500/read/).
<*04*> đèn xanh quyển vàng: nguyên văn "hoàng quyển thanh đăng" 黃捲青燈 chỉ đời sống đạm bạc của thư sinh. § Quách Tấn dịch bài Ðông lộ 東路 (trong tập Bắc Hành tạp lục của Nguyễn Du) cũng có câu: Ðường hé quyển vàng khuây gió bụi, Trạm lau gương sáng ngắm mày râu (nguyên tác: Tha hương nhan trạng tần khai kính, Khách lộ trần ai bán độc thư 他鄉顏狀頻開鏡, 客路塵埃半讀書).
II.4
<*01*> cầu Lam sóng dẫy nước đầy mênh mông: nguyên văn "bạch mang mang dật khởi Lam Kiều thủy" 白茫茫溢起藍橋水, do câu "thủy yểm Lam Kiều" 水渰藍橋, tỉ dụ trai gái yêu nhau gặp phải trắc trở chia lìa. § Tương truyền đời Đường, Bùi Hàng 裴航 hỏng thi, đi qua trạm Lam Kiều 藍橋, gặp nàng Vân Anh 雲英 ở đây. Bà mẹ nàng bảo hễ có cái chày giã thuốc bằng ngọc đem lại kháp vừa cái cối ngọc thì gả con gái cho. Về sau Bùi Hàng lấy được Vân Anh và hai người đều thành tiên (Thái bình quảng kí 太平廣記,, Bùi Hàng 裴航). Truyện Kiều có câu: Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang (265-266).
<*02*> đôi cá vợ chồng: nguyên văn "bỉ mục ngư" 比目魚, loài cá mình dẹp, mắt dính liền một bên. Tỉ dụ: hai người thương yêu nhau hoặc vợ chồng.
<*04*> cành Nam giấc mộng tỉnh rồi: nguyên văn "mộng lí nam kha" 夢裏南柯. Nam Kha 南柯: chỉ cảnh mộng. Theo tích Thuần Vu Phần 淳于棼 uống rượu say, nằm mơ được vinh hoa phú quý ở Hòe An quốc 槐安國, tỉnh giấc, chén thừa còn đó, nhìn thấy tổ kiến ở dưới cành nam cây hòe, chính là quận Nam Kha 南柯 trong mộng. § Cung Oán Ngâm Khúc có câu: Giấc Nam Kha khéo bất tình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
II.5
<*01*> Nhượng Tống không dịch đoạn này, gồm tên những khúc đàn nổi tiếng thời xưa: Xà phúc 蛇腹, Đoạn văn 斷紋, Phong dương 峰陽, Tiêu vĩ 焦尾, Băng huyền 冰弦.
<*02*> mấy người ăn ở thủy chung ở đời: nguyên văn "Mĩ bất hữu sơ, Tiển khắc hữu chung" 靡不有初, 鮮克有終 (Xem: Thi Kinh, Đại Nhã 大雅, Đãng 蕩), ý nói: Lúc ban đầu mệnh trời không bao giờ có điều chẳng lành, nhưng loài người lại ít kẻ sống trọn theo đạo lành (nghĩa là không biết ăn ở thủy chung).
<*03*> rán phượng ninh rồng: nguyên văn "bào phụng phanh long" 炮鳳烹龍, tỉ dụ yến tiệc linh đình, đủ các giai hào mĩ vị.
<*06*> hàng ngựa sắt: nguyên văn "thiết mã" 鐵馬; còn gọi là "phong linh" 風鈴:: một thứ vật dụng làm bằng kim loại, thủy tinh, ống tre..., treo dưới mái hiên nhà hoặc bên cạnh cửa sổ, khi gió thổi liền vang lên tiếng nhạc leng keng. Cả câu: Mạc bất thị thiết mã nhi diêm tiền sậu phong? 莫不是鐵馬兒簷前驟風? § Nhượng Tống dịch: Phải hàng ngựa sắt, gió thổi quanh trước rèm?
<*07*> Bổng như tiếng hạc trên mây, Trăng trong gió mát qua bay ngang trời: nguyên văn "Kì thanh cao, tự phong thanh nguyệt lãng hạc lệ không" 其聲高,似風清月朗鶴唳空. Bản dịch in là "Bổng như tiếng hạc trên mây, Trăng trong, gió mát, quạ bay ngang trời". Dấu nặng thêm vào chữ "qua" chắc hẳn in lầm (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 184).
<*08*> Văn Phượng Cầu Hoàng: nguyên văn "Phượng cầu hoàng" 鳳求凰, tên bản đàn Tư Mã Tương Như gảy cho Trác Văn Quân nghe.
<*09*> Lưu Thủy, Hành Vân... Ly Hoài: tên những khúc đàn cổ; nguyên văn: "Thanh dạ văn chung" 清夜聞鐘, "Hoàng hạc" 黃鶴...
III.1
<*01*> rám rỉnh: nguyên văn cả câu "thứ liễu tha sáp trệ khí sắc" 覷了他澀滯氣色 thấy cậu Trương vẻ mặt nhám sít, không được tươi tắn dễ chịu.
<*03*> cậu cử: nguyên văn "điện thí" 殿試 cuộc thi cử cấp cao nhất tổ chức ở cung điện hoàng đế; đời Nguyên cũng tôn xưng người đi thi là "điện thí".
III.2
<*01*> không có ý gì khác: nguyên văn "phi hữu tha ý" 非有他意; bản dịch in là "không có lý gì khác" (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 222).
<*01*> không có ý gì khác: nguyên văn "phi hữu tha ý" 非有他意; bản dịch in là "không có lý gì khác" (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 222).
<*02*> "vảo lèn": nguyên văn "nữ tự biên cán" 女字邊幹 tức là chữ "gian" 姦 (gồm ba chữ "nữ" 女). Cũng có người giải thích "nữ tự biên can" 女字边干 là chữ "gian" 奸 (viết giản thể). Đây là lời con Hồng nói bóng gió: Thôi Oanh Oanh trong lá thư gửi Trương Quân Thụy đã hẹn ngầm để cho chàng này "lẻn vào" phòng riêng, tức là đã có ý gian dâm.
III.3
<*01*> giàn văn côi: nguyên văn "đồ mi giá" 荼蘼架; bản dịch ghi "đàn văn côi": có lẽ là một lỗi ấn loát; "văn côi", còn có tên là "mai côi" 玫瑰, tức là hoa "tường vi" 薔薇 (rosa), cũng gọi là "đồ mi" 荼蘼; "giá" 架: cái giàn. Trong bài thánh ca Ngắm Văn Côi Ðức Bà có câu: "Vườn Rosa (Văn côi) bao quanh trái đất, Cảnh thiên nhiên thật rất diệu hiền." (cf. http://www.xuanha.net/Thang10-Memancoi/43ngamvancoiducba.htm)
III.4
<*01*> Bốn dòng nguyên văn sau đoạn (04), Nhượng Tống đem xuống dịch ở sau đoạn (11). Phụ chú: "Thục, thảo, khung, quế, cầm, quân tử, đất tường đông" đều là tên các vị thuốc (cf. bản dịch của Nhượng Tống, trang 267).
IV.1
<*01*> Nguyệt di hoa ảnh, nghi thị ngọc nhân lai 月移花影, 疑是玉人來
Truyện Kiều (437-438)
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
<*02*> hiền hiền dị sắc 賢賢易色
Tôn trọng người hiền, coi thường sắc đẹp. ◇Luận Ngữ 論語: Hiền hiền dị sắc, sự phụ mẫu năng kiệt kì lực, sự quân năng trí kì thân 賢賢易色, 事父母能竭其力, 事君能致其身 (Học nhi 學而) Tôn trọng người hiền, coi thường sắc đẹp, thờ cha mẹ hết sức mình, thờ vua hiến cả thân mình.
<*03*> Thẩm vấn minh bạch, chỉ nghi thị tạc dạ mộng trung lai 審問明白, 只疑是昨夜夢中來
Truyện Kiều (443-444)
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
Trong Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim chú giải như sau:
Tây Sương: Dữ ngã thật thị minh bạch, an tri bất thị mộng trung lai 與我實是明白, 安知不是夢中來 (trang 79).
hv-ebook: Câu thơ dẫn chứng trong sách của Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim không đúng với nguyên văn.
IV.2
<*01*> ◇Luận Ngữ 論語: Đại xa vô nghê, tiểu xa vô ngột, kì hà dĩ hành chi tai 大車無輗, 小車無軏, 其何以行之哉 (Vi chánh 為政) Xe lớn không có đòn nghê, xe nhỏ không có đòn ngột, thì lấy gì mà đi.
IV.3
<*01*> Hiểu lai thùy nhiễm sương lâm túy? Tổng thị li nhân lệ 曉來誰染霜林醉? 總是離人淚
Nhượng Tống dịch:
Rừng phong ai nhuộm đỏ tươi,
Phải chăng nước mắt của người biệt ly?
Truyện Kiều (1519-1520):
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
source: http://www.szlun.com/mxxz/2015/0224/12696.html |
Trong Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim chú giải như sau:
Tây Sương: Thu lai thùy nhiễm phong lâm thúy 秋來誰染楓林翠 Mùa thu ai đem nhuộm mất cái màu xanh của rừng cây phong (trang 132).
"Sương diệp" 霜葉 chỉ "lá cây phong". Ngoài ra, câu thơ dẫn chứng trong sách của Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim không đúng với nguyên văn.
No comments:
Post a Comment